Đường biên giới trên biển theo đúng luật pháp quốc tế
| 08-03-2013
Trước hết muốn hiểu đúng về Đường biên giới trên biển theo đúng luật pháp quốc tế, chúng ta cần hiểu rõ một số khái niệm cơ bản về Các đường ranh giới trên biển:
Thứ nhất:
Đường cơ sở: Đường cơ sở là cách nói ngắn của “đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải” . Đường cơ sở có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định ranh giới các vùng biển như vùng nội thủy (vùng biển nằm phía bên trong đường cơ sở), vùng lãnh hải (12 hải lý bên ngoài tính từ đường cơ sở), vùng tiếp giáp lãnh hải (24 hải lý tính từ đường cơ cở), vùng đặc quyền kinh tế (200 hải lý tính từ đường cơ sở)...
Có hai loại đường cơ sở. Bao gồm: Đường cơ sở thông thường là ngấn nước triều thấp nhất dọc theo bờ biển và Đường cơ sở thẳng là đường nối liền các điểm thích hợp và được áp dụng “ở nhưng nơi nào bờ biển bị khoét sâu và lồi lõm, hoặc nếu có một chuỗi các đảo nằm sát ngay và chạy dọc theo bờ biển”, hoặc ở nơi nào bờ biển cực kỳ không ổn định do có một châu thổ và do những điều kiện tự nhiên khác. Đường cơ sở của Việt Nam gồm 11 điểm có toạ độ xác định. Hệ thống này thực tế là kiểu đường cơ sở thẳng và còn để ngỏ hai điểm: điểm 0 nằm trên giao điểm giữa đường thẳng nối liền đảo Thổ Chu (Việt Nam) và đảo Poulowai (Cămpuchia) và đường phân định biên giới giữa hai bên trong vùng nước lịch sử, và điểm kết thúc ở cửa vịnh Bắc bộ.
Thứ hai:
Vùng nội thủy được tính toán trên cơ sở đường cơ sở: Vùng nội thủy của một quốc gia có chủ quyền là toàn bộ vùng nước và đường thủy trong phần đất liền và được tính từ đường cơ sở trở vào. Theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển, các quốc gia có biển được tự do trong việc áp dụng luật pháp của mình trong việc điều chỉnh bất kỳ việc sử dụng nào liên quan tới nội thủy cũng như các nguồn tài nguyên trong đó. Tàu thuyền nước ngoài không có quyền tự do đi qua vùng nội thủy kể cả không gây hại.
Thứ ba:
Vùng lãnh hải. Lãnh hải là vùng biển rộng 12 hải lý (1 hải lý = 1,852 km) tính từ đường cơ sở, có chế độ pháp lý tương tự như lãnh thổ đất liền, ranh giới ngoài cùng của lãnh hải là biên giới quốc gia trên biển. Trong vùng lãnh hải, tàu thuyền của các quốc gia khác được hưởng quyền đi lại không gây hại và theo tuyến phân luồng giao thông biển của quốc gia ven biển.
Thứ tư:
Vùng tiếp giáp lãnh hải, là vùng biển nằm phía ngoài lãnh hải và tiếp giáp với lãnh hải rộng 12 hải lý tính từ ranh giới ngoài của lãnh hải (24 hải lý tính từ đường cơ sở).
Thứ năm:
Vùng đặc quyền kinh tế, là vùng biển rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở (188 hải lý từ ranh giới ngoài lãnh hải, 176 hải lý từ ranh giới ngoài của vùng tiếp giáp lãnh hải). Trong vùng đặc quyền kinh tế, nước ven biển có quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với mọi tài nguyên thiên nhiên và hoạt động kinh tế nhằm khai thác sử dụng các tài nguyên thiên nhiên đó, có quyền tài phán đối với các hoạt động nghiên cứu khoa học bảo vệ môi trường biển, xây dựng và lắp đặt những công trình và thiết bị nhân tạo. Các nước khác có quyền tự do bay, tự do hàng hải và đặt cáp và ống dẫn ngầm.
Thứ sáu:
Thềm lục địa, là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài lãnh hải của quốc gia ven biển, trên phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia ven biển cho đến bờ ngoài của rìa lục địa hoặc tới giới hạn 200 hải lý tính từ đường cơ sở khi bờ ngoài của rìa lục địa ở khoảng cách gần hơn. Tuy nhiên bề rộng tối đa của thềm lục địa tính theo bờ ngoài của rìa lục địa không vượt quá giới hạn 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc không quá 100 hải lý bên ngoài đường đẳng sâu 2.500 m.
- Sự khác nhau cơ bản giữa thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế là vùng thềm lục địa là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài lãnh hải của quốc gia ven biển trên phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia ven biển. Vùng đặc quyền kinh tế là chế định riêng biệt áp dụng cho cột nước phía trên đáy biển.
Ở góc độ khoa học đo đạc và bản đồ, tôi có thể phân tích sự đúng - sai rõ ràng về cái gọi là “Đường chín khúc” (hay còn gọi là đường lưỡi bò) mà phía Trung Quốc tuỳ tiện vẽ trên bản đồ.
Trước hết, đặc tính quan trọng nhất của một đường biên giới quốc tế (kể cả các loại ranh giới) là sự ổn định và dứt khoát trong khi đường chín khúc không liên tục vì là những đoạn đứt khúc được mô tả một cách tuỳ tiện, thiếu dút khoát (trước đây là 11 đoạn sau bỏ đi 2 đoạn) và không có tính ổn định vì không được xác định (không có mốc toạ độ kinh, vĩ độ và cũng không có điểm cơ sở).
Về Bản đồ học, mọi đối tượng địa lý thể hiện trên bản đồ phải được mô tả và thể hiện bằng toạ độ địa lý. Năm 2011, khi Cục bản đồ quốc gia Trung Quốc công bố trên trang website đường lưỡi bò, Cục Đo đạc và Bản đồ Việt Nam đã có công hàm phản đối và đưa ra những lập luận khoa học trong bản đồ học gửi Đại sứ quán và Cục bản đồ quốc gia Trung Quốc. Ngay cả các học giả Trung Quốc cũng lúng túng khi giải thích về đường lưỡi bò, thậm chí nhiều học giả Trung Quốc không tin việc có đường lưỡi bò. Dư luận thế giới cũng không ủng hộ và phản đối Trung Quốc về Đường lưỡi bò nói riêng và cách hành xử nói chung của Trung Quốc trên Biển Đông.
|
Vùng đặc quyền kinh tế là một vùng biển đặc thù trong đó sự cân bằng về các quyền và quyền tài phán của mỗi quốc gia ven biển với các quyền tự do của các quốc gia khác. Theo đó các quốc gia ven biển có các quyền:
- Các quyền thuộc chủ quyền về thăm dò khai thác , bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên của vùng nước trên đáy biển cũng như đáy biển và lòng đất dưới đáy biển.
- Quyền tài phán về việc lắp đặt, sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình nghiên cứu khoa học về biển; bảo vệ và giữ gìn môi trường biển; các quyền và nghĩa vụ khác theo các điều khoản của công ước.
Trong vùng đặc quyền kinh tế các quốc gia khác đều được hưởng các quyền: tự do hàng hải, tự do hàng không, tự do đặt ống dẫn ngầm và dây cáp.
Từ những cơ sở trên, việc Tổng công ty dầu khí hải dương Trung Quốc (CNOOC) công bố mời thầu 9 lô dầu khí hợp tác thăm dò khai thác trong năm 2012 với các công ty nước ngoài, rõ ràng nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa của Việt Nam. Hành động này của Trung Quốc là sai trái, trái với Công ước Liên hợp quốc 1982 về Luật Biển vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia của Việt Nam, làm phức tạp thêm tình hình và gây căng thẳng ở Biển Đông. Việc làm này cũng trái với “Thoả thuận về Những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên Biển” đã ký ngày 11-10-2011 giữa 2 nước CHXHCN Việt Nam và CHND Trung Hoa.
Theo TN – MT